Đại tướng Chu Huy Mân - lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam

Thứ bảy 11/03/2023 10:48

Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí là một tấm gương sáng ngời, mẫu mực, tiêu biểu về một lòng trung với Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, suốt đời chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân.

Đồng chí Chu Huy Mân (bên trái) tại đài quan sát chiến dịch F2, tháng 6/1972. Ảnh: TL

Đồng chí Chu Huy Mân tên khai sinh là Chu Văn Điều, sinh ngày 17/3/1913 trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Yên Lưu, tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên, nay là xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Năm 1929, Chu Văn Điều tham gia cuộc mít tinh lớn của xã; trong cao trào cách mạng 1930 - 1931, được cử làm Đội phó Đội Tự vệ Đỏ; tháng 11/1930, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những năm tháng đầu tiên tham gia cách mạng, đồng chí đã gắn bó với lực lượng vũ trang. Tài thao lược của đồng chí gắn liền với nhiều chiến công vang dội của quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931, đồng chí đã lãnh đạo Đội Tự vệ Đỏ đẩy mạnh đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng. Trên cương vị Bí thư Chi bộ xã Yên Lưu, Đồng chí trực tiếp lãnh đạo phục hồi sau “khủng bố trắng” của thực dân Pháp (1933 - 1935) và tích cực tham gia các hoạt động trong phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ trong giai đoạn 1936 - 1939, xây dựng cơ sở và lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, tạo được tiếng vang lớn, góp phần lan tỏa, thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân ở nhiều địa phương trong cả nước.

Giai đoạn phục hồi sau “khủng bố trắng” của kẻ thù, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Yên Lưu, trực tiếp là đồng chí Chu Huy Mân, phong trào ở Yên Lưu vẫn được duy trì và phát triển mạnh. Trong giai đoạn 1937 - 1942, đồng chí nhiều lần bị địch bắt, giam cầm, đánh đập, tra tấn dã man và đưa đến nhiều nhà lao, như: Vinh (Nghệ Tĩnh), Đắk Glei, Đắc Tô (Kon Tum). Trong chốn lao tù, đồng chí luôn giữ vững khí tiết của một người cộng sản kiên trung; tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù đế quốc, biến nhà tù thành trường học cách mạng. Năm 1944, khi được cử vào Ban Việt Minh tỉnh Quảng Nam và là lãnh đạo nòng cốt, đồng chí có nhiều đóng góp cho việc tập hợp lực lượng, củng cố và phát triển phong trào cách mạng trong toàn tỉnh, chuẩn bị lực lượng tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Tháng 8/1945, đồng chí trực tiếp chỉ huy cuộc khởi nghĩa của nhân dân chiếm thành Quảng Nam, chỉ huy lực lượng tự vệ vũ trang hỗ trợ cho các huyện, tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tại tỉnh Quảng Nam giành thắng lợi. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đã đưa Quảng Nam trở thành một trong những tỉnh khởi nghĩa thành công sớm nhất trong cả nước, góp phần thúc đẩy Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trên toàn quốc giành thắng lợi hoàn toàn. Chính quyền Quảng Nam được thành lập, đồng chí được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy và được phân công làm Chính trị viên Chi đội (Tỉnh đội). Cuối năm 1945, đồng chí được Trung ương điều ra Huế giữ chức Chủ tịch Ủy ban Quân chính khu C (gồm 4 tỉnh Bắc Trung Bộ) sau đó lần lượt đảm nhiệm nhiều cương vị quan trọng của Quân đội và của Đảng, Nhà nước trên các mặt trận nóng bỏng, ác liệt nhất ở cả trong nước và các nước bạn Lào, Trung Quốc.

Trong Chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông 1947, trên cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 72, đồng chí phối hợp với chính quyền tỉnh Bắc Kạn chủ động chuẩn bị về mọi mặt, tổ chức đánh địch nhiều trận giành thắng lợi, góp phần buộc quân Pháp phải rút khỏi Bắc Kạn. Năm 1948, đồng chí được cấp trên điều lên Cao Bằng giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 74 kiêm Bí thư Đảng ủy Trung đoàn. Đồng chí đã tập trung lãnh đạo đơn vị vừa huấn luyện, vừa bảo đảm đời sống bộ đội, vừa sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu. Cuối tháng 8/1948, thực hiện Chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy, đồng chí chỉ huy Trung đoàn 74 sang giúp cách mạng Trung Quốc đánh quân Tưởng, mở rộng căn cứ địa ở vùng Tả Giang, tiến hành Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn giành thắng lợi, được Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc đánh giá cao. Tháng 8/1949, đứng trước yêu cầu của tình hình cách mạng mới, Bộ Tổng tư lệnh quyết định chọn lựa các trung đoàn 74, 72 và 28, lấy 3 tiểu đoàn mạnh thành lập Trung đoàn 174 (Cao - Bắc - Lạng). đồng chí được Bộ và Tổng Quân ủy chỉ định làm Chính trị Ủy viên, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn. Sự ra đời của Trung đoàn 174 cùng các đơn vị chủ lực khác đánh dấu bước trưởng thành của quân đội ta. Năm 1950, đồng chí đã chỉ huy Trung đoàn 174 tham gia đánh trận then chốt Đông Khê và giành thắng lợi trong Chiến dịch Biên giới.

Từ năm 1954 - 1961, đồng chí được giao đảm nhiệm nhiều chức vụ. Năm 1962, được cử đi học tại Học viện Quân sự Phơ-run-de (Liên Xô). Tháng 9/1963, được Trung ương Ðảng điều vào chiến trường Quân khu 5 và giữ các chức vụ: Trưởng đoàn Kiểm tra của Ðảng ủy Quân sự Trung ương nghiên cứu công việc của Quân khu 5; Phó Bí thư Khu ủy rồi Bí thư Quân khu ủy, Chính ủy Quân khu 5. Tháng 8/1965, đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Ðảng ủy Mặt trận B3 - Tây Nguyên. Năm 1967, đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư Khu ủy, Tư lệnh, Phó Chính ủy, Phó Bí thư Quân khu ủy Khu 5; cuối năm 1975 là Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Khu 5. Sau ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tiếp tục giữ chức Tư lệnh, Bí thư Đảng ủy, Chính uỷ Quân khu 5. Tháng 3/1977 - 12/1986, đồng chí đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Bí thư Ðảng ủy Quân sự Trung ương, Trưởng ban Kiểm tra Ðảng ủy Quân sự Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tháng 7/1981.

Năm 1958, đồng chí được phong quân hàm Thiếu tướng; thăng quân hàm vượt cấp từ Thiếu tướng lên Thượng tướng năm 1974; Ðại tướng năm 1980. Tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960), đồng chí được bầu là Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Ðảng. Tại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) và Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ V (năm 1982), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Ðồng chí là đại biểu Quốc hội khóa II, VI, VII. Tháng 12/1986, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao, về với cuộc sống đời thường, đồng chí luôn nêu cao phẩm chất, ý chí của người cộng sản, vị tướng của Nhân dân, có nhiều trăn trở, tiếp tục có những đóng góp quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Đảng và Quân đội.

Mẫu mực trong lời nói và hành động, đồng chí Chu Huy Mân luôn giữ vững nhân cách và bản lĩnh của người cộng sản, một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, là một tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức của “Bộ đội Cụ Hồ”. Với 93 năm tuổi đời, 76 năm tuổi Đảng, 61 tuổi quân, đồng chí Chu Huy Mân đã cống hiến cả cuộc đời mình, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hết lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có nhiều đóng góp vào thắng lợi to lớn cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như nghĩa vụ quốc tế.

Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của đồng chí (17/3/1913 - 17/3/2023), sẽ diễn ra Hội thảo khoa học cấp Bộ Quốc phòng tại tỉnh nghệ An với chủ đề “ Đại tướng Chu Huy Mân - Nhà chính trị, quân sự xuất sắc của các mạng Việt Nam, người con ưu tú của quê hương Nghệ An”. Qua đó làm rõ thêm cuộc đời hoạt động cách mạng kiên trung, bất khuất của Đại tướng Chu Huy Mân, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhất mực trung thành, tận tụy, suốt đời chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, dân tộc và cách mạng Việt Nam; người chiến sĩ quốc tế trong sáng, nhà chiến lược và vị chỉ huy xuất sắc, có uy tín lớn của Quân đội, người con ưu tú của quê hương Nghệ An. 

Đồng thời sẽ có rất nhiều các hoạt động xung quanh Hội thảo kỷ niệm 110 năm ngày sinh Đại tướng Chu Huy Mân và vùng đất con người Nghệ An. Thông qua tuyên truyền các hoạt động kỷ niệm góp phần giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang, nâng cao nhận thức, lòng tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang của cách mạng dân tộc Việt Nam, phát huy truyền thống cách mạng, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

M.T

Viết bình luận

Hãy sử dụng tiếng Việt có dấu khi viết bài. Bình luận của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng

 (*)

  (*)

Số ký tự còn lại:

Protected by FormShield
Refresh